Sự thay đổi của cát cromit sau khi gia nhiệt

Cromit còn được gọi là quặng crom. Cromit được tạo ra ở dạng cục và hạt màu đen, và đôi khi có thể nhìn thấy các tinh thể hình bát diện nhỏ. Cromit có ánh bán kim loại, độ cứng Mohs là 5,5, và giòn. Mật độ phụ thuộc vào thành phần của spinel và bản chất của các tạp chất, nói chung là từ 4,2 đến 4,8. Quặng sắt không có từ tính hoặc từ tính yếu, và quặng nào có hàm lượng sắt cao hơn thì có từ tính cao hơn. Độ cứng Mohs là 5,5-6, và độ khúc xạ lớn hơn 1900 ℃. Thành phần của quặng cromit trong tự nhiên rất phức tạp và thay đổi rất nhiều. Quặng cromit thường được đề cập trong ngành công nghiệp thực sự là một tinh thể hỗn hợp bao gồm sáu loại spinel. Công thức hóa học chung có thể được biểu thị là (Mg, Fe) O. (Cr, Al, Fe) 2O3. Trong công nghiệp, các khoáng chất tương tự như cromit, crom spinel,

Cát cromitcó khả năng chống xỉ kiềm tốt và không phản ứng hóa học với oxit sắt. Trong công nghiệp vật liệu chịu lửa, nó được sử dụng chủ yếu để sản xuất nguyên liệu thô magie-crom và gạch chịu lửa. Độ dẫn nhiệt của cát cromit lớn hơn nhiều lần so với cát silica và bản thân cát cromit trải qua quá trình thiêu kết pha rắn trong quá trình rót kim loại nóng chảy, điều này có lợi để ngăn chặn sự xâm nhập của kim loại nóng chảy. Trong công nghiệp đúc, cát cromit chủ yếu được sử dụng làm khuôn, cát bề mặt lõi và cát phủ chống dính và bột nhão cho các vật đúc thép lớn và các vật đúc thép hợp kim khác nhau. Nó có khả năng chống ăn mòn tuyệt vời. Cát cromit cũng là tài nguyên duy nhất để điều chế crom và các hợp chất chứa crom. tài nguyên cromit của đất nước tôi nghèo nàn và cấp độ quặng thấp, phân bố chủ yếu ở Hoa Bắc, Tây Bắc Trung Quốc và Tây Tạng. Trong ngành đúc, hiện chỉ có Nhà máy vật liệu đúc Shangnan sản xuất cát cromit, sản lượng hàng năm chỉ vài trăm tấn. Mặc dù quặng cromit ở Tây Tạng đã được khai thác nhưng rất khó vận chuyển. Để đáp ứng nhu cầu sản xuất các xưởng đúc trong nước, 10 năm qua nước này đã nhập khẩu quặng cromit từ Nam Phi.

Sự thay đổi nhiệt của cromit
(1) Độ tăng trọng lượng oxi hóa: Như đã đề cập ở trên, FeO là một trạng thái phổ biến của sắt trong cromit. Khi nung cromit trong không khí, FeO sẽ bị oxi hóa thành Fe2O3 từ khoảng 200 độ. , Quá trình oxy hóa này có thể được hoàn thành bằng cách giữ nó ở 1000 độ trong 1 giờ. Công thức phản ứng là: 2 (FeO · Cr2O3) + 1 / 2O2 —— Fe2O3 + 2Cr2O3 Tính oxi hóa của cromit làm tăng khối lượng của nó.
(2) Sự giãn nở do gia nhiệt: Đặc tính của sự giãn nở của cromit tăng lên đáng kể trên 850 độ C, nhưng lại co lại ở nhiệt độ cao. Quặng cromit được nung ở 1400 độ C và 1800 độ C từ các nguồn gốc khác nhau cho thấy sự co rút rõ rệt từ 1200 độ C và 1500 độ C. Hiện tượng này rất có hại cho vật liệu chịu lửa crom. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng thêm MgO vào chromite có thể loại bỏ hiện tượng co rút này, vì chromite có thể hấp thụ MgO trong dung dịch rắn và gây ra hiện tượng giãn nở mạng tinh thể.

Scroll to Top